Thêm nhiều giải pháp về thuế hỗ trợ doanh nghiệp phát triển
Ngày 25/8/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 63/NQ-CP về một số giải pháp về thuế tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh sự phát triển của doanh nghiệp. Kết quả này được kết tinh sau những nỗ lực trong nghiên cứu và tổng hợp của Bộ Tài chính. Trong đó, phải kể đến hành trình tham vấn ý kiến các bộ, ban, ngành, địa phương, nhất là từ phía cộng đồng doanh nghiệp.
Trên cơ sở kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp (DN) về các giải pháp thuế, tài chính tại Hội nghị đối thoại DN với hồi tháng 5/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg, trong đó, giao Bộ Tài chính xây dựng trình Chính phủ các giải pháp hỗ trợ thuế cho DN sản xuất kinh doanh đang gặp khó khăn. Triển khai thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, tại phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 7/2014, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã đề xuất một số giải pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh sự phát triển của DN tại Tờ trình số 95/TTr-BTC. Những giải pháp này đã được Chính phủ cụ thể hóa tại Nghị quyết số 63/NQ-CP về một số giải pháp về thuế tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh sự phát triển của DN. Cụ thể:
Giải pháp thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Về gia hạn nộp thuế
- Gia hạn thời hạn nộp thuế không quá 60 ngày đối với số tiền thuế giá trị gia tăng (GTGT) của máy móc, thiết bị nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án đầu tư mà tổng giá trị nhập khẩu từ 100 tỷ đồng trở lên; Cơ quan thuế thực hiện hoàn thuế trước, kiểm tra sau, chậm nhất là 5 ngày làm việc, kể từ ngày cơ quan thuế nhận được hồ sơ đề nghị hoàn thuế của DN. Trong thực tế, trước khi Nghị quyết 63/NQ-CP được ban hành, các DN đầu tư dự án có giá trị lớn, phải nhập khẩu hàng hóa là máy móc, thiết bị tạo tài sản cố định gặp nhiều khó khăn trong việc bố trí tiền nhập khẩu, tiền nộp thuế đối với hàng nhập khẩu, đặc biệt là những trường hợp hàng hóa nhập khẩu có giá trị lớn (từ trên 100 tỷ đồng); Nhiều DN phải vay vốn ngân hàng để nhập khẩu máy móc, thiết bị… dẫn đến chi phí về vốn lớn, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh.
- Gia hạn thời hạn nộp thuế tối đa không quá 2 năm, kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế đối với dự án đầu tư chưa được thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã ghi trong dự toán NSNN. Số thuế được gia hạn không vượt quá số tiền NSNN còn nợ và thời gian gia hạn không vượt quá thời gian NSNN còn nợ. Thống kê cho thấy, một số DN thực hiện dự án đầu tư bằng nguồn vốn NSNN gặp khó khăn do NSNN chưa bố trí được nguồn để thanh toán. Tình trạng chậm thanh toán này là nguyên nhân ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ thuế của DN.
Về thuế thu nhập doanh nghiệp
- Khu công nghiệp được ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) bao gồm cả khu công nghiệp thuộc các quận của đô thị loại đặc biệt, đô thị loại I trực thuộc Trung ương và các đô thị loại I trực thuộc tỉnh mới được thành lập từ huyện kể từ ngày 01/01/2009.
- DN được tính vào chi phí được trừ đối với khoản chi có tính chất phúc lợi chi trực tiếp cho người lao động mà DN có hóa đơn, chứng theo quy định; tổng số chi không quá 01 tháng lương bình quân thực tế thực hiện. Trước đây, DN nào cũng có khoản chi phúc lợi cho người lao động như chi thăm hỏi, hỗ trợ chi phí đi lại ngày lễ, tết; chi phí bảo trì, bảo dưỡng khu nhà ở của công nhân, người lao động; chi có tính chất phúc lợi… và đều có chứng từ hợp lệ theo quy định. Tuy nhiên, DN lại chưa được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN.
- Đối với các dự án đầu tư được cơ quan cấp phép đầu tư mà trong hồ sơ đăng ký đầu tư lần đầu gửi cơ quan cấp phép đầu tư đã đăng ký số vốn đầu tư, phân kỳ đầu tư kèm tiến độ thực hiện cụ thể thì các dự án đầu tư được cấp phép thực hiện đầu tư ở các giai đoạn tiếp theo trường hợp thực tế thực hiện được coi là dự án thành phần của dự án đầu tư đã được cấp phép lần đầu và được hưởng ưu đãi thuế TNDN theo mức ưu đãi đang áp dụng đối với dự án đầu tư lần đầu. Nghĩa là, đối với dự án đầu tư được cấp phép đầu tư trước ngày 1/1/2014 thì ưu đãi thuế được hưởng cho thời gian ưu đãi còn lại được tính từ 1/1/2014 (không hồi tố thực tế đã thực hiện trước 1/1/2014). Đối với những DN đang được hưởng ưu đãi thuế TNDN giai đoạn 2009-2013 mà trong quá trình sản xuất, kinh doanh có đầu tư bổ sung máy móc, thiết bị thường xuyên thì phần thu nhập tăng thêm được hưởng ưu đãi thuế TNDN. Nghiên cứu cho thấy, hồ sơ cấp phép có đề cập tới việc thực hiện đầu tư trong nhiều giai đoạn. Tuy nhiên, trong giấy phép chỉ ghi ưu đãi thuế cho nhà đầu tư theo quy định của văn bản pháp luật tại thời điểm cấp phép cho giai đoạn một hoặc theo quy định tại từng thời điểm cấp phép. Do đó, đối với các lần cấp phép thực hiện đầu tư giai đoạn sau DN chỉ được hưởng ưu đãi thuế theo mức ưu đãi áp dụng đối với đầu tư mở rộng. Chưa kể, việc từ bỏ ưu đãi về thuế TNDN đối với đầu tư mở rộng, DN không được hưởng ưu đãi đối với phần lợi nhuận tăng thêm cũng phần nào gây bức xúc cho DN.
- Không tính vào thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với khoản lợi ích là nhà ở do người sử dụng lao động xây dựng, cung cấp miễn phí cho người lao động làm việc tại khu công nghiệp, nhà ở do người sử dụng lao động xây dựng tại khu kinh tế, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn cung cấp miễn phí cho người lao động.
- Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan trình Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Danh mục chi tiết các loại hình, tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường được hưởng chính sách khuyến khích phát triển xã hội hóa cho phù hợp với thực tế. Trong khi chờ sửa đổi, bổ sung Danh mục chi tiết các loại hình, tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hóa thì chưa truy thu thuế TNDN. Thực tế cho thấy, mặc dù các tiêu chí về loại hình, quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hóa đến nay cơ bản đã có nhiều bước tiến, tuy nhiên vẫn chưa có quy định đối với xã hội hóa đầu tư xây dựng nhà dưỡng lão, ngay cả tiêu chí đối với các cơ sở mầm non, các cấp học phổ thông cũng chưa phù hợp…
Về quản lý những sắc thuế có 2 mức thuế suất, 2 phương pháp xác định thuế khác nhau
- Về thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản (BĐS) và chuyển nhượng chứng khoán. Nghị định số 65/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 của Chính phủ và Thông tư số 111/2913/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính đã quy định, cá nhân nếu cung cấp được hồ sơ chứng minh được giá vốn và các chi phí liên quan thì được áp dụng thuế suất 25% trên thu nhập từ chuyển nhượng BĐS, nếu cá nhân không xác định hoặc không có hồ sơ để xác định giá vốn và chứng từ chứng minh các chi phí liên quan thì áp dụng thuế suất 2% trên thu nhập và thực hiện khai quyết toán thuế trực tiếp với cơ quan thuế. Tuy nhiên, quy định này đã dẫn đến còn có nhiều cách hiểu khác nhau, gây vướng mắc trong thực hiện. Do đó trong Nghị quyết số 63/NQ-CP đã chỉnh sửa, bổ sung:
+ Đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản, cá nhân được lựa chọn phương pháp tính, nộp thuế 25% trên thu nhập từng lần chuyển nhượng; hoặc 2% trên giá bán từng lần chuyển nhượng.
+ Đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán, cá nhân được lựa chọn phương pháp tính, nộp thuế 20% trên thu nhập năm và cuối năm quyết toán; hoặc tính, nộp thuế 0,1% trên giá bán chứng khoán từng lần chuyển nhượng và cuối năm không quyết toán thuế.
- Việc quyết toán thuế TNCN đối với cá nhân hoạt động đại lý bảo hiểm, đại lý xổ số, cá nhân bán hàng đa cấp và quyết toán thuế đối với hộ kinh doanh khoán thường phức tạp và mất nhiều thời gian, để giảm thời gian quyết toán thuế, Chính phủ chỉnh sửa, bổ sung: Cá nhân, hộ kinh doanh có thu nhập từ kinh doanh đã thực hiện nộp thuế theo phương pháp khoán và cá nhân là đại lý bảo hiểm, đại lý xổ số, bán hàng đa cấp được tổ chức trả thu nhập khấu trừ thuế TNCN thì không phải quyết toán thuế.
- DN được kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào trong trường hợp chưa có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt do chưa đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng.
- Người nộp thuế có doanh thu từ 50 tỷ đồng/năm trở xuống thực hiện khai thuế GTGT theo quý.
- Người nộp thuế thực hiện khai quyết toán năm và tạm nộp thuế TNDN theo quý. Trường hợp tổng số tạm nộp thấp hơn từ 20% trở lên so với số thuế TNDN phải nộp theo quyết toán thì DN phải nộp lãi chậm nộp đối với phần chênh lệch từ 20% trở lên giữa số tạm nộp với số quyết toán tính từ ngày 31/12 của năm khai thuế đến ngày thực nộp số thuế còn thiếu so với sổ quyết toán.
- Bộ Tài chính phối hợp với Bảo hiểm Xã hội Việt Nam để có giải pháp nhằm giảm ít nhất 50% số giờ nộp các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
Các giải pháp thuộc thẩm quyền của Quốc hội
Bộ trưởng Bộ Tài chính thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình Quốc hội Khóa XIII kỳ họp thứ 8 xem xét, quyết định.
Về thuế thu nhập doanh nghiệp
- DN có dự án đầu tư được hưởng ưu đãi thuế TNDN theo quy định của pháp luật thuế TNDN tại thời điểm cấp phép hoặc cấp giấy chứng nhận đầu tư. Trường hợp pháp luật thuế TNDN có thay đổi thì DN được quyền lựa chọn hoặc hưởng ưu đãi thuế TNDN theo mức đang được hưởng theo quy định của pháp luật tại thời điểm cấp phép hoặc được hưởng ưu đãi theo quy định của pháp luật mới được sửa đổi, bổ sung cho thời gian còn lại nếu đáp ứng điều kiện ưu đãi thuế theo quy định của pháp luật mới được sửa đổi, bổ sung kể từ khi pháp luật thuế TNDN sửa đổi, bổ sung có hiệu lực thi hành.
- Dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư tối thiểu 12.000 tỷ đồng, thực hiện giải ngân không quá 5 năm kể từ khi được cấp phép đầu tư thì được áp dụng thuế suất ưu đãi 10% trong 15 năm qua, miễn thuế trong 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo đối với thu nhập của DN từ thực hiện dự án đầu tư trong lĩnh vực sản xuất.
- Thu nhập của DN từ thực hiện dự án đầu tư mới sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển được áp dụng thuế xuất 10% trong 15 năm, miễn thuế trong 4 năm và được giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo. Trường hợp đầu tư mở rộng sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển quy định tại khoản này nếu đáp ứng một trong ba tiêu chí về đầu tư mở rộng quy định tại Luật thuế TNDN số 32/2013/QH13 thì được lựa chọn hưởng ưu đãi thuế (cả thuế suất và thời gian miễn, giảm) theo dự án đang hoạt động cho thời gian còn lại (nếu có) hoặc được miễn thuế 04 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo đối với phần thu nhập tăng thêm do đầu tư mở rộng… Chính phủ quy định Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển quy định tại khoản này.
- Về thuế TNDN đối với phần thu nhập của DN chuyển về nước của các dự án do DN Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Đây là vấn đề mới phát sinh, trong khi DN đã nộp thuế thu nhập tại nước đầu tư. Để khuyến khích DN Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, góp phần tăng cường an ninh quốc phòng, Nghị quyết 63/NQ-CP nêu rõ: Miễn thuế, giảm thuế hoặc không thực hiện thu thuế đối với phần thu nhập của DN Việt Nam đầu tư ở nước ngoài khi chuyển về nước; Giao Thủ tướng Chính phủ quyết định cụ thể.
- Dự án đầu tư có quy mô lớn và có tác động sâu, rộng đến kinh tế - xã hội của địa phương hoặc vùng kinh tế. Theo đó, dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư tối thiểu 12.000 tỷ đồng, thực hiện giải ngân không quá 5 năm kể từ khi được cấp phép đầu tư thì được áp dụng thuế suất ưu đãi 10% trong 15 năm qua, miễn thuế trong 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo đối với thu nhập của DN từ thực hiện dự án đầu tư trong lĩnh vực sản xuất. Trường hợp cần đặc biệt thu hút đầu tư thì được xem xét kéo dài thêm thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi 10% nhưng tối đa không quá 15 năm. Thực tế, trước đó một số dự án đầu tư có tổng quy mô vốn đầu tư lớn hơn mức 6.000 tỷ đồng, có tác động quan trọng tới kinh tế - xã hội (ví dụ như dự án đầu tư sản xuất điện, dự án lọc hóa đầu, dự án sản xuất công nghiệp nặng quy mô lớn, dự án đầu tư hạ tầng kinh tế xã hội, đầu tư khu liên hiệp công nông nghiệp dịch vụ quy mô lớn, liên vùng; dự án đầu tư của các tập đoàn lớn có quy mô xuất khẩu cao…) theo luật hiện hành thì chỉ được ưu đãi tối đa theo mức nêu trên và nếu áp đáp ứng điều kiện về công nghệ cao thì mới được xem xét cho kéo dài thời gian áp dụng thuế suất 10% tối đa thêm 15 năm.
- Áp dụng thuế suất 20% trong năm 2014 và 2015 đối với DN hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp sử dụng thường xuyên trên 300 lao động và thực hiện bao tiêu sản phẩm thu hoạch cho người lao động không thuộc địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn. Từ ngày 1/1/2016, thu nhập của DN quy định tại khoản này được áp dụng thuế suất 17%. Giải pháp này đưa ra nhằm thu hút đầu tư cũng như tăng cường liên kết giữa DN và nông dân, khuyến khích phát triển sản xuất lớn.
- Chi phí khống chế quy định tại Điểm 2.m Khoản 5 Điều 1 Luật thuế TNDN số 32/2013/QH13 chỉ áp dụng đối với chi quảng cáo.
Về thuế thu nhập cá nhân
- Miễn thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của người lao động Việt Nam là thuyền viên làm thuê cho các hãng tàu nước ngoài hoặc các hãng tàu Việt Nam vận tải quốc tế. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, có nước quy định một số khoản thu nhập được miễn thuế (trong đó có thu nhập từ làm thuê cho hãng tàu nước ngoài có ràng buộc về thời gian làm việc trên tàu nếu như đáp ứng điều kiện làm việc trên tàu nhiều hơn 182 ngày trong năm (Anh, Ấn Độ, Úc, Lithuania…), có nước thì cho phép giảm trừ một khoản khi xác định thu nhập tính thuế (Ailen cho giảm trừ 6.350 EUR nếu thuyền viên làm việc trên tàu trên 161 ngày/năm)…
- Miễn thuế TNCN đối với chủ tàu cung cấp dịch vụ trực tiếp phục vụ khai thác hải sản xa bờ để nhằm khuyến khích chủ tàu là cá nhân cung cấp các dịch vụ hậu cần phục vụ cho hoạt động khai thác hải sản; góp phần bảo đảm an ninh trên biển, bảo vệ chủ quyền biển đảo.
- Bỏ quy định thu thuế TNCN đối với cá nhân trúng thưởng trong casino, cho phù hợp với thông lệ quốc tế và đảm bảo phòng, chống thất thu NSNN đối với loại hình này. Theo đó, thuế TNCN quy định tại Điểm c Khoản 6 Điều 3 Luật thuế TNCN chỉ áp dụng đối với thu nhập từ trúng thưởng trong các hình thức cá cược.
Về thuế giá trị gia tăng
- Hàng hóa là tài sản cố định của dự án đầu tư thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực đào tạo, giáo dục, dạy nghề, y tế khám chữa bệnh, văn hóa, thể dục, thể thao, môi trường, xử lý rác thải, nước thải… được khấu trừ, hoàn thuế GTGT đầu vào, góp phần tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy xã hội hóa.
- Khống chế 15% đối với chi phí quảng cáo. Không khống chế các khoản chi tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới, tiếp tân, khánh tiết, hội nghị, hỗ trợ tiếp thị, hỗ trợ chi phí liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh.
- Chủ tàu khai thác hải sản được hoàn thuế GTGT của tàu dùng để khai thác hải sản đối với tàu được đóng mới, nâng cấp có tổng công suất máy chính từ 400 mã lực (CV) trở lên, tạo điều kiện cho chủ tàu khai thác hải sản phục vụ việc bám biển.
- Không thu thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên dùng cho nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp. Qua đó, giải quyết vướng mắc trong quan hệ thương mại với các nước cũng như ổn định đời sống người nông dân, khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Trước đây, trong quá trình thực hiện Khoản 5 Điều 9 Luật thuế Tài nguyên số 45/2009/QH12 tuy không phát sinh vướng mắc song trong quan hệ thương mại với nước ngoài đã có tranh chấp về mặt pháp lý khi Hoa Kỳ cho rằng, việc quy định miễn thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên dùng cho nông, lâm, ngư, diêm nghiệp là một trong những hình thức trợ cấp của Chính phủ cho các tổ chức, cá nhân sản xuất hàng xuất khẩu.
- DN xác định doanh thu, chi phí, giá tính thuế và các khoản thuế nộp NSNN (trừ trường hợp nộp thuế bằng ngoại tệ theo quy định của Chính phủ) bằng đồng Việt Nam; Trường hợp phát sinh doanh thu, chi phí, giá tính thuế bằng ngoại tệ hoặc người nộp thuế có nghĩa vụ phải nộp bằng ngoại tệ nhưng được có quan có thẩm quyền cho phép nộp thuế bằng đồng Việt Nam thì DN phải quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch thực tế tại thời điểm phát sinh. Trong thực tế, thực hiện quy định của Luật thuế, DN luôn phải điều chỉnh sổ sách kế toán theo tỷ giá giao dịch liên ngân hàng, điều này gây khó khăn, phức tạp không đáng có cho DN trong việc xác định doanh thu, chi phí, giá tính thuế, tăng thời gian kê khai, nộp thuế của DN…
- Xoá nợ tiền phạt chậm nộp thuế phát sinh trước ngày 01/7/2013 của DN gặp khó khăn khách quan và đã nộp khoản nợ thuế gốc trước ngày 31/12/2014. Thẩm quyền xóa nợ thuế thực hiện theo quy định tại Khoản 22 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế. Giao Chính phủ quy định cụ thể phạm vi đối tượng DN gặp khó khăn khách quan được xóa nợ tiền phạt chậm nộp thuế trên đây. Khảo sát cho thấy, trong thời gian từ 2008-2013, nhiều DN gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh do những nguyên nhân khách quan như: thị trường tiêu thụ giảm sút, tồn kho sản phẩm cao; lạm phát ở mức cao; tín dụng vay ngân hàng cao (trên 15%); chu kỳ sản xuất kéo dài; bị khách hàng chậm thanh toán lớn… dẫn đến việc chậm nộp tiền thuế, khi đó DN bị phạt chậm nộp tiền thuế mức 0,05%/ngày (18,3%/năm) đối với số tiền thuế chậm nộp.
- Căn cứ tình hình thực tế và điều kiện trang bị công nghệ thông tin, Chính phủ quy định cụ thể việc người nộp thuế không phải nộp các chứng từ trong hồ sơ khai, nộp thuế, hải quan; hồ sơ hoàn thuế, thoái thuế… mà cơ quan thuế, cơ quan hải quan đã có.
Nghị quyết nêu rõ, trong quá trình triển khai thực hiện, các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải bám sát tình hình thực tế, chủ động theo dõi, đánh giá để có biện pháp xử lý linh hoạt, kịp thời hoặc kiến nghị, đề xuất cấp có thẩm quyền những giải pháp chỉ đạo, điều hành kịp thời, hiệu quả.